“Đến việc phải thay bao nhiêu chiếc thuyền xi măng bị hư hỏng tôi còn không nhớ, chứ nói gì đến việc chở biết bao nhiêu thế hệ học sinh qua sông”, cô Nụ cười.
Những ký ức rồi sẽ phai nhạt dần theo năm tháng, nhưng những vết sẹo nằm trên da thịt được khắc thành hình thành hài trong suốt quá trình 18 năm làm nghề lái đò sẽ chẳng thể nào mất đi. Đối với cô Nụ, chúng chẳng là gì quá to tát nhưng đối với chúng tôi, những vết sẹo đó chính là “huân chương lao động siêu hạng” cho những người chèo thuyền ngày ngày xuôi ngược sông nước. “Vết sẹo” ngoài da thịt dù có chảy máu, nhưng cũng không thể nào đau đớn được bằng những “vết sẹo” lòng được ẩn giấu bên trong mà chỉ có chủ nhân của nó mới có thể thấu cảm được.
“Mình không lái đò thì hành trình đi học của trò sẽ ra sao?”, cô Nụ đưa ra một câu hỏi tu từ, một câu hỏi minh chứng cho những “vết sẹo lòng” trong cô khiến không gian khung quanh yên ắng đến lạ. Tôi nghĩ lúc này đây ai trong chúng tôi cũng mường tượng về cái viễn cảnh ấy, viễn cảnh một ngày các em học sinh tại xóm Nhạp không có cô Nụ đưa đò. Chắc con đường đến trường của các em sẽ trắc trở hơn, chắc các em sẽ vất vả hơn vào những ngày thời tiết lạnh giá? Hay là giấc mơ con chữ của các em sẽ phải chấm dứt để hàng ngày cùng eng - mạng (tiếng của dân tộc Mường nghĩa là bố - mẹ) lên nương làm rẫy, đến mùa ngô thì trồng ngô, đến mùa sắn thì đào sắn? Chúng tôi - ngay cả cô Nụ cũng không biết nữa.
Rồi nhân đây, chúng tôi biết được rằng hiếm lắm cô Nụ mới đi giày cao gót đi làm. Khi hỏi vì sao thì cô chỉ cười một giọng đầy hào sảng và nói: “Lái đò thì cần gì đẹp đâu mà đi giày cao gót. Rồi chẳng may… chỉ là chẳng may thôi tình huống bất ngờ xảy ra trong quá trình lái đò, đi giày cao gót vướng víu lắm”.
Từ chữ “chẳng may” đấy, chúng tôi phát hiện ra một “vết sẹo lòng” nữa đang ẩn sâu bên trong cô Nụ. Kể từ thời điểm các bạn học sinh bước lên đò, cô Nụ phải gánh vác thêm cả phần trách nhiệm đảm bảo an toàn cho các em học sinh. Rồi chẳng may… chẳng may thì sao? Lo lắng là một chuyện nhưng cô Nụ chưa bao giờ có ý định từ bỏ công việc thầm lặng này bởi cô không muốn hành trình đi học của các bạn học sinh ở xóm Nhạp gian nan.
Làm nghề lái đò 18 năm, cô có trong mình vô số những kỷ niệm. Ngồi với chúng tôi, cô mân mê, nắn nót chúng từng chút một. Lướt nhìn qua, ánh mắt cô lúc đấy sáng bừng lên lấp lánh, từng kỷ niệm qua đi như người thuyền trưởng kể về chiến tích vừa băng qua vạn dặm hải hồ.
Những khi mưa gió, sương mù, giá rét... việc đi lại vất vả hơn, cô trò phải lò dò đi từng chút một. Rồi những khi mưa bão ập đến, những cành cây trôi dạt từ đầu nguồn về thượng nguồn, mắc vào cánh quạt làm thuyền chết máy giữa lòng sông, lúc này cô Nụ lại phải nhảy xuống, tháo những vật cản ra khỏi bánh lái để tiếp tục hành trình đưa trò đến bến chữ…
Những kỷ niệm lan dần ra theo những lớp lang sóng vỗ…
Mong những con chữ đến với học sinh xóm Nhạp bớt chòng chành hơn
Không chỉ dừng lại ở những hình ảnh trong hồi ức của cô Nụ, đoàn chúng tôi còn được tận mắt chứng kiến một màn chèo đò đưa học sinh qua sông của cô vào một buổi chiều nắng dần phai trên sông Đà. Sau khi giảng dạy xong tại trường Mầm non Yên Hòa, cô Nụ lại đi xe máy cách một quãng đường đèo vắt ngang núi dài 30 phút lái xe để xuống bến đò. Các em học sinh xóm Nhạp cũng có mặt đầy đủ từ trước, mặc sẵn áo phao để chờ cô Nụ đến.
Giữa một hàng dài con thuyền hiện đại nằm trên bờ chờ khách qua sông, chiếc thuyền của cô Nụ nằm lọt thỏm trong số đó. Nó là một chiếc thuyền dài khoảng 3 sải tay người lớn không có mái che. Để dễ hình dung nhất, tôi thấy nó thật giống với một chiếc thuyền độc mộc nhưng thay vì đục bằng gỗ thì nó lại được làm bằng sắt với lớp bên ngoài xỉn màu do thời gian ghi dấu.
Khi thuyền bắt đầu khởi hành, chúng tôi mới cảm nhận được sự hùng vĩ của thiên nhiên. Gió luồn qua khe núi hun hút khiến tất cả thành viên trong đoàn chúng tôi không tài nào mở mắt ra được. Rồi gió xô làm những gợn sóng bắt đầu cuộn trào, con thuyền vì thế cũng lênh đênh, chao đảo theo lớp lang sóng vỗ. Lúc này nếu lái không khéo là lật thuyền như chơi.
Trước những thách thức của con sóng ngọn gió nơi đây, cô Nụ vẫn bình tĩnh đến lạ vì cô đã thuộc quãng sông này như thuộc cả lòng bàn tay. 18 năm qua, cô Nụ đã đúc rút cho mình cả một một bộ “chiến thuật” lái sóng, lái gió Đà giang. Với cô Nụ, một người lái đò giỏi phải là một người biết cắt sóng, rẽ sóng để cho những gợn nước không xô mạnh vào mạn thuyền, làm người ngồi trên thuyền chòng chành, chênh vênh. Rồi những hôm sóng cao gió cả, phải tìm ra được “điểm yếu” của sóng để rồi đâm thẳng, đâm trực diện nhằm tránh nước văng tung tóe, ướt người ngồi trên.
Giữa một hàng dài con thuyền hiện đại nằm trên bờ chờ khách qua sông, chiếc thuyền của cô Nụ nằm lọt thỏm trong số đó. Nó là một chiếc thuyền dài khoảng 3 sải tay người lớn không có mái che.